Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Khắc phục những bất cập trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, dù các vấn đề SHTT được đặt ra khá nhiều, song việc triển khai quản lý SHTT, đặc biệt tại các trường đại học, viện nghiên cứu còn nhiều bất cập như: giảng sư, các nhà khoa học vẫn còn chưa hiểu rõ về giá trị của quyền SHTT, chưa có bộ phận chuyên trách theo dõi, chỉ dẫn bảo đảm quyền lợi cho những người nghiên cứu; nhiều sản phẩm trí óc chưa được đăng ký bảo hộ độc quyền, hoặc nếu có đăng ký thì việc quản lý, khai khẩn thương mại cũng rất hạn chế… Ông Nguyễn Văn Bảy, Giám đốc trọng tâm Nghiên cứu và Đào tạo Cục Sở hữu trí tuệ cho biết những năm qua các trường đại học của Việt Nam chỉ khai triển đồng thời hai nhiệm vụ là đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Theo Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí óc Hoàng Văn Tân, sở hữu trí óc (SHTT) đang trở nên một nhân tố quan yếu trong sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế kiến thức hiện.

Bên cạnh đó, năng lực của các cơ quan quản lý và thực thi quyền SHTT của Việt Nam cũng được tăng cường, từng bước giải quyết được các thách thức.

Bên cạnh đó, quản lý và thương mại hóa tài sản trí não cũng chưa được quan tâm thỏa đáng, trong khi đây chính là khâu quan trọng để đưa SHTT vào cuộc sống. Hợp lý từ nguồn thu được từ việc khẩn hoang thương mại tài sản trí tuệ.

Chỉ có một số trường đã để ý đến việc chuyển giao công nghệ. Tại hội thảo, nhiều nhà khoa học cũng cho rằng Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động tạo ra các tài sản trí não phê chuẩn việc mở mang đầu tư cộng tác kinh tế với các nước khác, đồng thời, thành lập văn phòng chuyển giao công nghệ và bộ phận quản lý tài sản trí óc ở các trường đại học theo kinh nghiệm của Nhật Bản.

Ông Hoàng Văn Tân cho rằng, các quy định pháp lý nhằm quản lý và chỉ dẫn vấn đề này bây giờ còn nhiều bất cập.

Thu Cúc. Bên cạnh đó, cần phân bố lợi. Hiện, Việt Nam đã thiết lập được khung pháp lý về SHTT đầy đủ, bảo đảm sự bảo hộ thỏa đáng lợi quyền của chủ thể quyền, đáp ứng được mong muốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang sinh sản kinh doanh tại Việt Nam.

Tuy nhiên, nhiệm vụ đào tạo vẫn là chính, hoạt động chuyển giao công nghệ và nghiên cứu khoa học vẫn còn hạn chế vì các trường vẫn còn thiếu những công trình, sản phẩm khoa học mang tính áp dụng cao, tài sản trí tuệ chưa được khai hoang hợp lý.

Tuy cơ quan quản lý đã có nhiều rứa, song hoạt động này còn hạn chế so với tiềm năng sáng tạo tài sản trí não của xã hội. Các trường, viện nghiên cứu cũng cần ban hành các văn bản và cơ chế quản lý tài sản trí tuệ hiệp, trong đó cần lưu ý tới việc xác định đối tượng được bảo hộ; xây dựng quy chế quản lý, khai hoang hoạt động tài sản trí não.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét