Thứ ba là giao thông với các công ty mẹ có công ty con hoạt động ở Việt Nam
Xin cảm ơn ông! LƯƠNG THU MAI (thực hành).Trái lại, nhà đầu tư “xấu” sẽ bỏ trốn khỏi Việt Nam. Nhiều dự án đã có biểu đạt dùng những bộ chứng từ xuất du nhập để vay tại ngân hàng thương nghiệp của chúng ta rồi ôm tiền về nước và chúng ta chẳng thể tìm được hành tung nhà đầu tư. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy cách tốt nhất là đầu tiên phải kiểm tra năng lực của nhà đầu tư dự án kinh dinh, tức tính khả thi của dự án và dự án phải bảo đảm được tình hình kinh doanh tốt trong 3 năm trước tiên.
Thứ hai thẩm tra rõ về người điều hành dự án đó, nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài. PV: Vậy công tác quản lý thời gian tới nên được tiến hành như thế nào để không tái diễn tình trạng này? TS Phạm Hùng Tiến: Phải có giải pháp tổng thể, bắt đầu từ giám định hồ sơ.
Một là bản kế hoạch kinh doanh phải có viễn tượng trong 3 năm tới. Ngoài ra, trong quá trình triển khai dự án, cơ quan quản lý nên trực tính kiểm tra, giám sát dưới nhiều hình thức như vấn đề vệ sinh môi trường, an toàn cần lao, thực hiện nghĩa vụ với quốc gia Việt Nam.
Đó là cách lựa chọn tốt nhất. Việc này cũng rất cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước ở địa phương cũng như Trung ương. Bên cạnh đó nhiều nhà đầu tư đã xác định vấn đề đạo đức kinh dinh không rõ ràng, nhiều DN FDI chỉ kinh dinh trong thời gian ân hạn thuế tối đa 275 ngày, họ làm ăn chụp giật, đến thời kì phải nộp thuế là họ biến mất.
Nếu nhà đầu tư tốt, họ sẽ thực hành đầy đủ các bổn phận với quốc gia, với người cần lao. PV: Theo vắng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có hơn 500 DN FDI bỏ trốn khỏi Việt Nam. Trong trường hợp xác định họ bỏ trốn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Văn bản số 7566/BKHDT-PC chỉ dẫn việc thu hồi giấy chứng thực đầu tư các trường hợp vắng chủ đối với dự án chưa triển khai thực hiện hoặc dự án vắng chủ đã có các phán quyết của tòa án.
Thứ ba công ty đi đầu tư sẽ phải bẩm tình hình tài chính của công ty mẹ trong 3 năm gần nhất. TS Phạm Hùng Tiến. Ví thử họ có trụ sở tại khu công nghiệp, ban quản lý cần quan tâm đến họ nhiều hơn nữa.
Thứ hai họ sẽ kết hợp với phòng thương mại và công nghiệp địa phương của nước đi đầu tư. Tuy nhiên, các trường hợp khác chưa có hướng dẫn xử lý. Sau khi quyết định tòa án có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ bán đấu giá tài sản của các DN bỏ trốn này. Nhìn chung họ nhấn mạnh tính khả thi của dự án đầu tư. Theo ông nguyên cớ nào khiến có tình trạng các DN bỏ trốn? TS Phạm Hùng Tiến: nguyên do sâu sa khiến DN bỏ trốn xuất phát từ năng lực tài cốt kém.
Bên cạnh đó, ngay giai đoạn đầu họ vận hành dự án, chúng ta nên tạo cho họ nhiều dịp để kết liên với kinh tế của địa phương, doanh nghiệp địa phương và các nhà cung cấp dịch vụ để giúp họ tháo gỡ khó khăn, nếu có. Họ gặp khó khăn trong quá trình vận hành dự án, làm bõ bèn lỗ nên phải dừng dự án.
Chuẩn y các hình thức rà này, cơ quan quản lý sẽ nắm bắt được tình hình thực tiễn của DN để có giải pháp xử lý. Sau khi thẩm định 3 đối tượng trên chúng ta mới cấp giấy phép đầu tư. PV: Được biết ông cũng tìm hiểu nhiều về môi trường đầu tư ở Đức và có nhiều mối quan hệ với các DN Đức, vậy cách nước Đức phòng tránh việc DN FDI bỏ trốn như thế nào, thưa ông? TS Phạm Hùng Tiến: Ở Đức cơ quan thụ lý đăng kí kinh doanh sẽ rà soát một dự án đầu tư trên 3 bình diện.
PV: Hướng xử lý với hơn 500 DN FDI này như thế nào, thưa ông? TS Phạm Hùng Tiến: Trước hết chúng ta phải tìm hiểu nguyên cớ vì sao họ bỏ trốn hay tạm ngừng kinh dinh. Nếu để DN bán hết máy móc, nợ lương người lao động rồi cơ quan quản lý mới ra tay giải quyết là có lỗi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét