Cái hay của câu đối không chỉ ở chỗ nói lái rất Việt Nam mà còn nói lên được hai vai trò chiến lược của thời kỳ này là kháng chiến và kiến quốc
Theo dự định ban đầu, Bộ tổng Tư lệnh đồng ý phương án đấu đánh vào phân khu Lào Cai, phóng thích thị xã Lào Cai, thông đường xe lửa sang Vân Nam (Trung Quốc) - nhưng “Sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác luận bàn trong thường vụ là nên chuyển hướng từ giải phóng Lào Cai sang Cao Bằng.
Đã có nhiều ghi nhận, đánh giá về anh tài, đức độ của ông, nhưng có nhẽ niềm kiêu hãnh nhất, lớnnhất của Tướng Giáp chính là ông đã sống, cống hiến theo đúng phẩm chất “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của các đời “bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, sau đó kế hoạch này đã đổi thay, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định vào phút cuối. Nhiều khả năng phải đột phá sâu, dẫn tới đánh ban ngày, đánh dài ngày.
Mật lệnh của Tướng Giáp đã góp phần kết thúc mau chóng cuộc chiến tranh quần chúng. Bác coi Cao Bằng là một cứ địa “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”.
Tôi nhớ đến những lời Bác viết trong thư ngợi khen quân và dân sau thắng lợi: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu”. 000 ông đã phân tích cho cơ quan tham vấn, nếu đánh Cao Bằng sẽ phạm vào nguyên tắc của binh pháp: “Một người giữ ải, muôn người khó vượt qua”.
Bác hỏi: “Việc này chú Văn đảm nhận, chú Văn có thể làm được không?”. Nhận nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến dịch, sáng 5/8/1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi khảo sát, nghiên cứu thực địa Cao Bằng. Dòng chữ chung cục kết thúc hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, ông nhớ đến Bác Hồ: “Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”, “lòng yêu dân, yêu nhân loại không bao giờ đổi thay”, “mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân”, “có dân là có tất cả”, “đoàn kết, đoàn kết, đại kết đoàn”, đó là những điều nằm trong di sản Người để lại cho dân tộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chúng ta có thể hiểu, bao giờ trong sâu thẳm tâm hồn, ông cũng nhớ đến người thầy, người lãnh tụ mà ông luôn yêu kính. Mùa hè năm 1950, để giành lại ưu thế quân sự trên mặt trận, chuẩn bị thế và lực phản công, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới do ông trực tiếp lãnh đạo.
Trong thâm tâm, ông tự nhủ “Giá như còn có Bác. Mãi đến lát sau, ông Tôn Quang Phiệt mới có được câu đối thật hay: - Hiến tài hái tiền! Hiến ở đây là ông Lê Văn Hiến - Bộ trưởng Bộ Tài chính kiêm bí thơ Việt minh đoàn của cơ quan chính phủ. Mở chiến dịch ở Cao Bằng, ta có khả năng diệt một bộ phận sinh lực địch quan yếu, thắng lợi ở đây sẽ tạo đà thuận tiện chuyển sang gia đoạn mới” (Đường tới Điện Biên Phủ, NXB QĐND- 2001- tr.
30). # Việt Nam”. Ngày 8/2/1941, Bác Hồ bí hiểm về nước, ở hang Pắc Pó (Hà Quảng - Cao Bằng), thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt minh. Giữa lúc công việc đang bề bộn thì Bác ốm.
Bấy giờ, mật lệnh của Tướng Giáp đã được quán triệt đến toàn quân “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới phóng thích hoàn toàn miền Nam, quyết thắng và toàn thắng”.
Và phải chăng chúng ta làm trái lời dạy của người xưa: “Đánh thành là hạ sách!” (SĐD - tr. Khi Võ Nguyên Giáp đến nhận chỉ thị, Bác căn dặn: “Lúc này cơ hội thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Nếu chúng không chiếm lại Đông Khê, ta sẽ đánh Thất Khê, phá vỡ tuyến phòng thủ của chúng. # Theo hoài vọng của Bác Hồ mà Bộ Chính trị đã đề ra. Trong một bữa ăn tối sau cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Bác Hồ vui vẻ đọc vế đối nhắc nhở nhiệm vụ trọng đại của Tướng Giáp: - Giáp phải giải pháp! Mọi người đều suy nghĩ tìm cách đối lại, nhưng đều không chỉnh. Những lời này chỉ có được ở chủ toạ Hồ Chí Minh” (Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, tr.
Sau một thời gian chuẩn bị lại chu đáo, lúc 17g ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - chỉ huy trưởng trận mạc - hạ lệnh nổ súng. Lời dạy của Bác đã trở nên kim chỉ nam cho mọi hành động của ông suốt những năm tháng chiến tranh. Sự thành công của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chính là do ông đã vận dụng các bài học của Bác Hồ một cách nhuần nhuyễn từ tư duy đến hành động.
Ông thưa: “Có thể được”. ”. Ai nấy đều háo hức chờ đợi chốc lát lập công. Hơn nữa, “đánh Cao Bằng sẽ phải giải quyết một loạt vấn đề chiến thuật mà quân nhân ta còn ít kinh nghiệm.
; Phạm Văn Đồng viết Người chính trị viên; còn Võ Nguyên Giáp viết Công tác chính trị trong quân đội cách mạng, lược dịch Chiến tranh du kích kháng Nhật của Chu Đức để kịp thời có tài liệu giảng dạy cho các tổ chức vũ trang đang lần lượt ra đời. Có thể ghi nhận, đây là lời hứa trước nhất của Tướng Giáp với Bác Hồ. Mất Đông Khê sẽ xảy ra hai cảnh huống: hoặc địch sẽ đem quân lên tái chiếm, ta có điều kiện diệt lúc chúng ngoài công sự; hoặc chúng sẽ rút khỏi Cao Bằng.
Lúc 17g50 ngày 14/4/1975, Tổng bí thư Lê Duẩn gửi bức điện cho các tướng soái Hoàng Văn Thái, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng thông tin: “Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch phóng thích Sài Gòn lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Kết thúc hồi ký Trong tổng hành dinh mùa xuân đại thắng, ông lại nhấn mạnh: “Lịch sử ghi nhận công đầu thuộc về chủ toạ Hồ Chí Minh vĩ đại, người anh hùng phóng thích dân tộc, nhà chiến lược nhân tài, nhà văn hóa kiệt xuất, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang quần chúng.
Bác Hồ rất chấp thuận về người học trò của mình, tuy nhiên ngay thời khắc ấy, Bác đã nói với Tướng Giáp một điều mà chưa ai nghĩ đến: “Sau chiến thắng ở Điện Biên, tôi từ Tây Bắc trở lại Việt Bắc, đến chào Bác.
Phải diệt những công trình phòng ngự rất chắc chắn trong khi bộ binh ta hầu hết chỉ có khí giới nhẹ. Ý kiến sáng láng của Tướng Giáp được chấp thuận, Bác Hồ trực tiếp chỉ thị: “Chỉ cho đánh thắng, không cho đánh bại”. Hơn thế, Bác còn dặn dò lúc chia tay: “Trận này rất quan yếu, phải đánh cho thắng. Cũng trong đêm đó, không thể dùng điện đài vì sợ lộ bí mật, ông viết thư hỏa tốc báo cáo với Bộ Chính trị và Bác Hồ về sự thay đổi này.
Với tài cầm quân của một vị tướng có tầm nhìn chiến lược, Tướng Giáp đã chỉ đạo toàn quân hoàn tất xuất sắc nhiệm vụ, không phụ lòng tin của Bác.
Ít ai biết, chiều ngày 30/4/1975, sau cuộc họp với Bộ Chính trị, nắng chiều đang vàng rực trên rặng cây xà cừ trên đường Hoàng Diệu, Tướng Giáp một mình thả những bước chân đi trên phố Hà Nội hòa cùng niềm vui của dân tộc, bất giác trên khóe mắt của một vị tướng dạn dày chiến trường ấy đã trào ra những giọt nước mắt hạnh phúc.
Không chỉ thế, khi Đại tướng Navarre được cử làm Tổng tư lệnh quân đội Pháp, vừa sang đến Việt Nam, đã huyên hoang tuyên bố: “Điện Biên Phủ là một tuyến phòng ngự bất khả xâm phạm!”. Đó là lúc 17 giờ, ngày 25/1/1954, mở đầu chiến dịch là 2. Phải tổ chức vượt sông. Ngay trên bản đồ tỷ lệ 1/500. Phải đối phó với quân dù, hỏa lực tàu bay, đại bác trên địa hình trống vắng.
Dù thời khắc nào, Tướng Giáp cũng luôn nhắc đến bài học từ Bác Hồ mà ông đã tiếp thụ và vận dụng. Bấy giờ, Trung ương Đảng và Bác Hồ chọn phương án “đánh nhanh thắng nhanh” nhằm tiêu diệt cứ điểm Điện Biên Phủ, vì nếu không đánh sớm giặc sẽ tăng thêm quân, củng cố công sự ngày một vững chắc, ta sẽ không còn điều kiện để đả kích.
Rút cuộc, sáng ngày 26/1/1954 Đảng ủy chiến trận đã họp, đàm luận gay gắt và đồng ý chuyển phương châm tác chiến “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề ra.
Do đó, ông đã miêu tả lại với Trung ương Đảng và Bác Hồ chủ trương khai mạc chiến dịch bằng trận đánh Đông Khê. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Tướng Giáp cũng có những thời diểm quyết định minh mẫn.
Người bắt tay chúc mừng, rồi nói: “nhân dân ta còn phải tiếp chống Mỹ”. Quyết định này có được, do ông nhớ đến lời dạy xuyên suốt của Bác: “Lúc này thời cơ thuận tiện đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Từ thắng lợi này, cục diện chiến trận đã có những đổi thay lớn. 000 trái pháo 105 ly sẽ trút xuống đầu quân giặc! Nhưng đến giây phút đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định đổi phương án tác chiến! Trước lúc đi khảo sát thực tại chiến trường, Bác Hồ nói với ông: “Tổng tư lệnh ra trận mạc, “Tướng quân tại ngoại” trao cho chú toàn quyền”.
11). Ông Võ Nguyên Giáp - bí danh là Văn - được cử đảm nhận Ủy ban Quân sự Tổng bộ Việt minh. Một hôm, Bác gọi Võ Nguyên Giáp lên, cho biết sẽ thành lập đội tuyên truyền phóng thích quân.
Và, cho đến lúc trút hơn thở chung cuộc, Tướng Giáp đã luôn tự hào với lời hứa danh dự của “lính Cụ Hồ”. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm cứ chỉ đạo cách mệnh cả nước. Bấy giờ, vấn đề huấn luyện quân sự trở nên bức thiết, Bác viết những quyển sách, in li-tô khổ nhỏ bỏ túi như Chiến thuật du kích, Kinh nghiệm du kích Nga - Tàu.
Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. LÊ MINH QUỐC. 440). Trong các tập hồi ký, Tướng Giáp cho biết, ông nhiều lần áp dụng lời dạy của Bác Hồ để công việc đạt hiệu quả tốt nhất. Pháo binh Việt Nam rót đạn xuống cụm Him Lam, dọn đường cho bộ binh xung phong vào đồn giặc - khai mạc chiến dịch Điện Biên Phủ vang lừng trái đất.
Sau này, ông cho biết cảm tưởng ở phút chốc này: “Tôi cảm thấy trách nhiệm lần này rất nặng”. Bấy giờ, hàng ngàn dân quân đã đổ mồ hôi và cả máu để hoàn thành được nhiệm vụ thần kỳ mà Đảng và Bác Hồ giao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét